Lịch Numa Lịch_La_Mã

Vị vua thứ hai của La Mã là Numa Pompillus (715-673 TCN) đã cải tiến lịch Romulus, bằng cách cộng 51 ngày dư của Romulus vào, giảm 6 tháng có 30 ngày xuống còn 29 ngày (50 + 6 = 56), từ đó thêm vào lịch 2 tháng có 28 ngày, đặt tên là:

  • Februarius: trong tiếng Latin februltus có nghĩa là "sửa lại những gì đã sai" và trong thời gian này người La Mã bắt đầu sự tinh lọc hàng năm, đặt kề sau tháng December. Tháng này là tháng khắc nghiệt nhất trong năm (tương ứng với tháng 1 dương lịch bây giờ).
  • Ianuarius: đặt sau tháng Februarius và trước khi quay vòng lại tháng Martius. Tháng này được đặt theo vị thần Janus trong thần thoại La Mã, có hai khuôn mặt ngược nhau, tượng trưng cho sự thay đổi, chuyển tiếp, khởi đầu và kết thúc.

Ngoài ra, Numa cộng thêm 1 ngày vào tháng Februarius, cứ 4 năm 1 lần, và vào năm này ông cho thêm 1 tháng gọi là mens intercalaris (tháng chênh lệch) có 29 ngày vào sau tháng Februarius.

Như vậy, lịch Numa bao gồm:

  1. Martius: 31 ngày
  2. Aprilis: 29 ngày
  3. Maius: 31 ngày
  4. Iunius: 29 ngày
  5. Quintilis: 31 ngày
  6. Sextilis: 29 ngày
  7. September: 29 ngày
  8. October: 31 ngày
  9. November: 29 ngày
  10. December: 29 ngày
  11. Februarius: 28 ngày (hay 29 ngày mỗi 4 năm)Mens intercalaris: 29 ngày (chỉ 4 năm 1 lần)
  12. Ianuarius: 28 ngày

Như vậy, một năm theo lịch Numa có 354 ngày (hay 384 ngày vào năm có mens intercalis). Tuy nhiên, người La Mã vốn kiêng con số chẵn, nên đã cho tháng Ianuarius thêm 1 ngày thành 29 ngày, và từ đó 1 năm bình thường có 355 ngày và vào năm có mens intercalaris thì có 385 ngày. Tính bình quân trong 4 năm, mỗi năm có 362,5 ngày. Những ngày chênh lệch còn lại so với năm thiên văn (365,2564 ngày mặt trời trung bình) được bù đắp bằng cách thêm vào không theo một quy luật đều đặn nào.